Chương 5. Tu tập giới hạnh (nghệ thuật sống)


Chương 5. Tu tập giới hạnh (nghệ thuật sống)


 Để thoát khổ, chúng ta phải diệt trừ nguyên  nhân gây ra khổ: tham, sân và si (thèm muốn,  chán ghét, vô minh). Để đạt được điều này, Đức Phật đã  khám phá, đã thực hành và đã dạy một con đường thực  tiễn để đạt được mục đích này. Ngài gọi con đường này là  Bát Thánh Đạo.
 Có lần, được thỉnh cầu giải thích giáo huấn này bằng  ngôn từ giản dị dễ hiểu, Ngài nói:
 “Không làm các việc ác,
 Thành tựu mọi điều lành,
 Giữ tâm ý thanh tịnh,
 Chính lời chư Phật dạy.”


 Sự trình bày này rất rõ ràng, và mọi người đều đồng  ý chúng ta nên tránh những hành động gây hại và thực  hành những hành động có ích lợi. Nhưng làm sao định  nghĩa được thế nào là lợi hay hại, thế nào là thiện hay  bất thiện? Khi cố gắng phân biệt như vậy, chúng ta dựa  vào các quan điểm, niềm tin truyền thống, những sở thích  và định kiến của mình, kết quả là chúng ta luôn đưa ra  những định nghĩa hạn hẹp, có tính cách tông phái, có thể  chấp nhận được với một số người nhưng không được những  người khác chấp nhận. Thay vì những diễn giải hạn hẹp  như thế, Đức Phật đưa ra một định nghĩa phổ quát về  thiện và bất thiện hoặc tốt lành và tội lỗi. Bất cứ hành  động nào gây hại, làm xáo trộn sự bình an và hòa hợp của  người khác đều là xấu xa, tội lỗi. Và bất cứ hành động nào giúp đỡ người khác, góp phần trong việc tạo dựng sự bình  an và hòa hợp của họ thì đều là tốt đẹp, thiện lành. Hơn  nữa, tâm chỉ thực sự thanh tịnh nhờ vào sự trải nghiệm  trực tiếp thực tại của chính mình và nỗ lực một cách có  hệ thống để loại trừ những điều kiện gây ra khổ đau chứ  không phải bằng cách thực hành những nghi thức tôn giáo  hay rèn luyện tri thức.
   Bát Chánh Đạo có thể chia ra làm ba giai đoạn rèn  luyện gồm: giới (sila), định (samadhi), tuệ (panna). Giới  là thực hành giới hạnh, tránh tất cả những hành động bất  thiện bằng việc làm cũng như lời nói. Định là rèn luyện sự  chú tâm, phát triển khả năng điều khiển và kiểm soát một  cách có ý thức những tiến trình của tâm. Tuệ là trí tuệ, là  sự phát triển tuệ giác thanh tịnh về tự tánh 


 Giá trị của sự giữ giới

  Bất cứ người nào muốn thực hành giáo pháp (Dhamma)  đều phải bắt đầu bằng sự giữ giới (sila). Đây là bước đầu  tiên, nếu không giữ giới thì không thể nào tiến bộ được.  Chúng ta phải tránh mọi hành vi và lời nói làm thương tổn  đến người khác. Đây là điều dễ hiểu: xã hội đòi hỏi hành vi  như vậy để tránh xáo trộn. Thật ra, chúng ta tránh những  hành vi như vậy không chỉ vì chúng làm tổn thương người  khác, mà còn vì chúng làm tổn hại đến chính ta. Chúng  ta không thể phạm vào một điều bất thiện - như chửi rủa,  giết người, trộm cắp, hiếp dâm - mà không tạo ra tâm  trạng bồn chồn, tham muốn, chán ghét mạnh mẽ. Giây  phút tham muốn hay chán ghét này mang lại khổ đau  ngay bây giờ và càng nhiều đau khổ hơn trong tương lai. Đức Phật nói:
   Bị thiêu đốt bây giờ, bị thiêu đốt về sau
   Người làm ác chịu khổ đau gấp đôi...
    Hạnh phúc bây giờ, hạnh phúc về sau
   Người có đức hạnh hưởng hạnh phúc gấp đôi.
 Chúng ta không cần đợi đến sau khi chết mới trải  nghiệm được thiên đàng hay địa ngục; chúng ta có thể trải  nghiệm những điều ấy ngay trong đời này, và ngay bên  trong bản thân ta. Khi chúng ta làm những điều xấu xa,  chúng ta phải chịu lửa hỏa ngục của sự tham lam và sân  hận. Khi chúng ta làm điều tốt lành, chúng ta được hưởng  thiên đàng của sự bình an nội tâm. Vì vậy tránh những  việc làm và lời nói bất thiện không chỉ vì lợi ích cho người  khác mà còn là lợi lạc cho chính mình, tránh gây hại cho  chính mình.
 Còn một lý do nữa để giữ giới. Chúng ta muốn khảo sát  tự thân để có tuệ giác sâu xa về thực tại của chính mình.  Muốn làm được như vậy đòi hỏi một tâm thanh tịnh. Chúng  ta không thể nào nhìn rõ đáy ao khi nước bị khuấy động.  Muốn nội quán cần một tâm an tĩnh, không dao động. Khi  chúng ta làm điều bất thiện, tâm ta bị dao động. Chỉ khi  nào ta tránh được những hành động bất thiện bằng việc  làm và lời nói thì tâm mới có cơ hội trở nên an bình đủ để  thực hiện việc nội quán.
 Còn một lý do khác nữa giải thích vì sao giữ giới lại  tối quan trọng. Người thực hành Dhamma là luyện tập để  đạt được mục đích tối thượng của sự giải thoát khỏi mọi  đau khổ. Trong khi làm công việc này, người ấy không thể  phạm vào những hành động làm gia tăng các thói quen mà  người đó muốn loại bỏ. Bất cứ hành động nào làm tổn hại  người khác đều là do tham, sân, si (thèm muốn, chán ghét,  vô minh) đi kèm theo gây ra. Thực hiện những hành động  đó là thụt lùi hai bước cho mỗi bước tiến trên đường, làm  trở ngại cho bất kỳ sự tiến triển nào hướng đến mục tiêu
 Như vậy, giới không những cần thiết cho sự tốt lành  của xã hội, mà còn cho sự tốt lành của mỗi người trong xã  hội, và không chỉ vì lợi ích trần tục, mà còn cho sự tiến bộ  của người đó trên con đường Dhamma.
 Ba phần của Bát Thánh Đạo thuộc về sự thực hành  giới hạnh (sila) là: lời nói chân chánh (chánh ngữ), hành  động chân chánh (chánh nghiệp), nghề nghiệp chân chánh  (chánh mạng).


 Lời nói chân chánh (chánh ngữ)

 Lời nói phải trong sạch và thiện lành. Thanh tịnh đạt  được nhờ xóa bỏ bất tịnh, và chúng ta phải hiểu thế nào là  lời nói bất tịnh. Đó là: nói dối, nói thêm bớt ngoài sự thật;  bịa chuyện làm chia rẽ bạn bè; nói xấu sau lưng, hay vu  oan; ác khẩu làm người khác bực bội, không có lợi ích gì;  nói chuyện tầm phào, vô nghĩa, mất thì giờ của mình và  của người khác. Tránh được tất cả những lời nói bất tịnh  như trên là nói lời chân chánh.
 Đây không chỉ là một khái niệm thụ động. Đức Phật  giải thích: “Người thực hành lời nói chân chánh, nói thật  và luôn luôn trung thực, đáng tin cậy, thẳng thắn với người  khác. Người đó hòa giải những tranh cãi và khuyến khích  đoàn kết. Người đó hân hoan trong sự hòa hợp, tìm kiếm  sự hòa hợp, vui hưởng và tạo ra sự hòa hợp bằng lời nói.  Lời nói của người đó nhẹ nhàng, dễ nghe, hiền từ, làm ấm  lòng người, lễ độ, dễ chịu và làm vui lòng nhiều người.  Người đó nói đúng lúc, đúng sự thật, phù hợp với những  gì hữu ích, thuận theo Dhamma và thuận theo Giới hạnh.  Lời người đó đáng ghi nhớ, đúng lúc, đúng lẽ, khéo chọn,  và xây dựng.”


 Hành động chân chánh (chánh nghiệp) 

 Hành động cũng phải thanh tịnh. Cũng như lời nói,  chúng ta phải hiểu những hành động nào là bất tịnh để có  thể tránh. Đó là: giết hại sinh vật, trộm cắp, tà dâm, chẳng  hạn như hãm hiếp hay ngoại tình, và uống rượu hoặc dùng  chất gây say làm mất lý trí, không còn biết mình làm gì hay  nói gì. Tránh bốn hành động trên là hành động chân chánh. Đây cũng không phải là một khái niệm thụ động.  Diễn tả một người có hành động chân chánh, Đức Phật  nói: “Buông bỏ gươm giáo và gậy gộc, người này cẩn thận  không làm hại ai, đầy lòng nhân từ, tìm sự tốt đẹp của mọi  chúng sinh. Không còn giấu giếm, người ấy sống như một  người thanh tịnh.”

 Giới luật

 Đối với người bình thường sống đời thế tục, để thực  hành lời nói chân chánh và hành động chân chánh là giữ  Năm giới:
 1. Tránh giết hại bất cứ sinh vật nào;
 2. Tránh trộm cắp;
 3. Tránh tà dâm;
 4. Tránh nói dối;
 5. Tránh say nghiện.
 Năm giới trên là căn bản tối thiểu cần cho đức hạnh.  Người nào muốn thực hành Dhamma đều phải giữ theo. Tuy nhiên, trong cuộc sống đôi khi cũng có những lúc có  cơ hội tạm thời để ta tạm thời buông bỏ việc đời sang một bên  - có thể trong vài ba ngày, hoặc chỉ trong một ngày - để thanh  lọc tâm, để tu tập hướng đến giải thoát. Một giai đoạn như thế là lúc để thực hành Dhamma nghiêm chỉnh, và vì vậy  ta phải thận trọng trong hành động hơn là những lúc bình  thường. Điều quan trọng là tránh những hành động có thể  làm xao lãng hay ảnh hưởng đến công việc tự thanh lọc. Bởi  vậy, lúc đó ta phải giữ tám giới. Những giới này bao gồm năm  giới căn bản trên với một thay đổi: thay vì chỉ tránh tà dâm,  ta phải tránh hẳn mọi hoạt động tình dục, và thêm vào ba  giới nữa là (1) tránh ăn không đúng giờ (nghĩa là không được  ăn sau giữa trưa); (2) tránh những trò giải trí bằng khoái cảm  (như nghe, xem ca múa nhạc kịch...) và tránh trang điểm;  tránh ngủ trên giường cao rộng xa hoa. 
 Yêu cầu từ bỏ hoạt động tình dục và các giới bổ sung là  để trợ giúp thêm cho sự an tĩnh và tỉnh giác, cần thiết cho  công việc nội quán, và giúp cho tâm khỏi bị quấy rối bởi  những xáo động bên ngoài. Tám giới này chỉ cần giữ trong  thời gian chuyên chú thực tập Dhamma mà thôi. Khi thời  gian này chấm dứt, một người cư sĩ có thể quay lại giữ  Năm giới như là kim chỉ nam cho đức hạnh của mình.
 Cuối cùng, có Mười giới dành cho một người tu sống  đời thoát ly gia đình, như một vị tăng hay một vị ni. Mười  giới này gồm tám giới vừa nói ở trên, với giới thứ bảy chia  thành hai giới và thêm một giới nữa là: tránh không nhận  tiền bạc. Những người tu ẩn dật buộc phải sống nhờ hoàn  toàn vào sự cúng dường của người khác để có thể dành  trọn thời gian vào việc thanh lọc tâm, mang lại lợi ích cho  chính mình và cho mọi người.
 Giới luật, dù là năm giới, tám giới hay mười giới, không  phải là những khuôn mẫu trống rỗng do truyền thống quy  định. Chúng là những “bước bổ sung cho sự tập luyện”  theo đúng nghĩa, là phương tiện rất thực tiễn để giúp cho  hành động và lời nói của chúng ta không gây tổn hại đến  người khác cũng như chính bản thân mình.


  Nghề nghiệp chân chánh (chánh mạng)

 Mỗi người đều phải tự nuôi sống bản thân bằng một  phương thức thích hợp. Có hai tiêu chuẩn cho nghề nghiệp  chân chánh. Thứ nhất, nghề đó không phạm vào Năm  giới, vì nếu như vậy rõ ràng sẽ làm hại đến người khác.  Hơn nữa, ta cũng không được làm bất kỳ điều gì khuyến  khích người khác phạm vào Năm giới, vì như vậy cũng gây  hại. Nghề nghiệp của ta cũng không được gây tổn thương  cho người khác, dù trực tiếp hay gián tiếp. Vì vậy nghề  nghiệp nào đòi hỏi sự giết chóc người hay súc vật hiển  nhiên không phải nghề nghiệp chân chánh. Ngay cả việc  giết hại do người khác làm và ta chỉ buôn bán các phần của  con vật đã bị giết như da, thịt, xương, vân vân, thì đó cũng  không phải là nghề nghiệp chân chánh, vì phụ thuộc vào  hành động sai quấy của người khác. Bán rượu hay ma túy  có thể được nhiều lãi, và mặc dầu ta không dùng, nhưng  hành động bán đó là khuyến khích người khác dùng độc  dược, như vậy có hại cho họ. Mở một sòng bạc có thể rất có  lãi, nhưng những người đến đánh bạc đều tự làm hại họ.  Bán chất độc hay khí giới - súng ống, bom đạn, hỏa tiễn  - là việc buôn bán phát đạt, nhưng làm hại sự bình an và  hòa hợp của bao nhiêu người. Tất cả những nghề nêu trên  đều không phải nghề nghiệp chân chánh.
 Ngay cả những công việc có thể không thật sự làm hại  người khác, nhưng nếu làm với ý định hại người, thì cũng  không phải là nghề nghiệp chân chánh. Bác sĩ hy vọng có  bệnh dịch, người buôn hy vọng có nạn đói đều không phải  thực hành nghề nghiệp chân chánh.
 Mỗi người là một thành viên của xã hội. Chúng ta mỗi  người phục vụ xã hội bằng công việc chúng ta làm, phục  vụ người khác bằng những cách khác nhau. Để đổi lại,  chúng ta nhận thù lao để sinh sống. Ngay cả các nhà sư hay những người tu ẩn dật cũng phải làm việc đúng đắn để  được cúng dường: nỗ lực thanh lọc tâm để ích lợi cho mình  và cho người khác. Nếu họ lạm dụng người khác bằng cách  lừa dối, thực hiện những trò quỷ thuật hay dối trá xưng  mình đã chứng thánh, đó đều là không thực hành nghề  nghiệp chân chánh.
 Những thù lao ta nhận được do công việc ta làm là để  nuôi sống bản thân và gia đình. Nếu còn dư thừa, ít nhất  một phần trong số đó nên được trả lại cho xã hội bằng cách  giúp đỡ người khác. Nếu chúng ta làm với ý định lợi ích cho  xã hội và để nuôi sống bản thân, giúp đỡ người khác, thì  công việc chúng ta làm là nghề nghiệp chân chánh.


 Thực hành Giới hạnh trong khóa thiền Vipassana

 Lời nói chân chánh, hành động chân chánh, nghề nghiệp  chân chánh phải được thực hành vì chúng có ý nghĩa đối với  chúng ta và người khác. Khóa thiền Vipassana cho chúng  ta cơ hội áp dụng mọi khía cạnh của Giới hạnh (sila). Đây  là thời gian dành riêng cho sự thực hành Dhamma một  cách chuyên chú, và vì vậy, mọi người tham dự đều phải  giữ Tám giới. Tuy nhiên có ngoại lệ cho những người mới  tham dự lần đầu, hay cho những người có bệnh: họ được  phép ăn một bữa ăn nhẹ vào buổi chiều. Vì lý do này, những  người đó chỉ chính thức giữ Năm giới, mặc dầu trong mọi  khía cạnh khác họ thực sự giữ theo Tám giới.
 Ngoài việc giữ giới, tất cả những người tham dự khóa  thiền còn phải nguyện giữ im lặng cho đến ngày cuối cùng  của khóa học. Họ có thể nói với các thiền sư phụ tá hay  những người điều hành khóa học, nhưng không được nói  với các thiền sinh khác. Do vậy những sự phân tâm được  giảm đến mức tối thiểu. Mọi người có thể sống và hành  thiền gần sát nhau mà vẫn không làm phiền lẫn nhau.

Trong bầu không khí yên tĩnh và bình an này, mỗi người  có thể thực hiện nội quán.
 Để đổi lại sự tu tập nội quán, các thiền sinh được ăn,  ở miễn phí. Mọi chi phí đều do người khác hiến tặng. Vì  vậy trong khóa học, các thiền sinh sống gần giống như  những người tu hành ẩn dật, sống nhờ vào sự hiến tặng  của người khác. Bằng cách thực hành thiền hết sức mình  để được ích lợi cho bản thân và cho người khác, thiền sinh  đã thực hành nghề nghiệp chân chánh trong khi tham dự  một khóa thiền Vipassana
 Giữ giới là một phần trên con đường Dhamma. Không  giữ giới thì không có tiến bộ, vì tâm quá dao động không  thể quan sát được thực tại bên trong. Có người nói rằng sự  phát triển tâm linh vẫn có thể thực hiện được mà không  cần phải giữ giới. Nhưng người đó dù có thể làm gì đi nữa,  cũng không phải là những người tuân theo lời dạy của Đức  Phật. Không giữ giới cũng vẫn có thể thể nghiệm được vài  trạng thái cực lạc, nhưng coi đó là thành quả tâm linh là  một sự sai lầm. Lẽ dĩ nhiên, không giữ giới (sila) thì người  ta không bao giờ có thể giải thoát tâm khỏi khổ đau và thể  nghiệm được sự thật tối hậu.


 Vấn đáp

 Câu hỏi: Có phải thực hành hành động chân chánh  cũng là một loại bám chấp không
 Thiền sư S. N. Goenka: Không. Chỉ cần làm hết sức  mình, và hiểu rằng kết quả ngoài sự kiểm soát của mình.  Bạn hãy làm việc của mình, còn kết quả thì phó mặc cho  tự nhiên, cho Dhamma: “Nguyện cho mọi việc hoàn tất.”
 Như vậy nghĩa là sẵn sàng chấp nhận mắc lỗi?
  Nếu bạn mắc phải lỗi lầm và nhận lỗi, rồi cố gắng để  không tái phạm. Nhưng rồi bạn lại thất bại, bạn có thể  mỉm cười và cố gắng tìm một cách khác. Nếu bạn có thể  mỉm cười trước sự thất bại, bạn không bám chấp. Nhưng  nếu thất bại làm bạn chán nản và thành công làm bạn  mừng quýnh, chắc chắn đó là bạn đang bám chấp.
 Như vậy, hành động chân chánh chỉ cho sự cố gắng của  mình chứ không phải cho kết quả?
 Không phải kết quả. Kết quả tự nhiên là tốt nếu hành  động tốt. Dhamma lo liệu việc đó. Chúng ta không có  quyền lựa chọn kết quả, nhưng chúng ta có thể chọn lựa  hành động của chúng ta. Hãy cứ làm hết sức mình.
 Vô ý làm hại người khác có phải là một hành động sai  quấy không?
 Không. Phải có ý định làm hại một người nào đó, và  phải thành công trong sự gây ra tai hại, thì hành động sai  quấy mới được thực hiện. Giới hạnh (sila) không nên vận  dụng đến mức cực đoan, vừa không thực tế vừa không ích  lợi. Mặt khác, cũng nguy hiểm không kém nếu như bạn  quá bất cẩn trong hành động đến nỗi cứ tiếp tục làm hại  người khác rồi tự bào chữa rằng mình không cố ý làm hại.  Dhamma dạy chúng ta phải luôn có ý thức tỉnh giác.
 Thế nào là sự khác biệt giữa hoạt động tình dục đúng  đắn và tà dâm. Đây có phải là vấn đề của sự chủ ý không?
 Không. Tình dục có một chỗ đứng thích hợp trong đời  sống gia đình. Chúng ta không nên cố dồn nén nó, vì bắt  buộc một cuộc sống kiêng tình dục chỉ gây ra căng thẳng,  tạo thêm nhiều vấn đề, nhiều khó khăn. Nhưng nếu bạn  buông thả theo sự đòi hỏi của tình dục và chấp nhận làm  tình với bất cứ người nào khi thể xác đòi hỏi, thì chẳng bao  giờ bạn có thể thoát khỏi đam mê. Hãy tránh hai cực đoan  này vì chúng nguy hiểm như nhau. Dhamma đưa ra con đường trung dung, một sự thực hành lành mạnh về tình  dục mà vẫn cho phép phát triển về tâm linh. Đó là sự liên  hệ tình dục giữa một người nam và người nữ đã kết hợp với  nhau. Và nếu người phối ngẫu của bạn cũng là một thiền  sinh Vipassana thì khi sự đam mê nổi dậy, cả hai hãy quan  sát nó. Đây không phải là sự dồn nén, cũng không phải  buông thả. Bằng cách quan sát bạn có thể thoát khỏi đam  mê một cách dễ dàng. Đôi khi hai người vẫn có quan hệ  tình dục, nhưng dần dần họ cùng tiến triển đến một giai  đoạn mà quan hệ tình dục chẳng có ý nghĩa gì. Đây là giai  đoạn thực sự không tình dục một cách tự nhiên, ngay cả  một ý tưởng đam mê cũng không khởi sinh trong lòng. Sự  không tình dục này tạo một niềm vui vượt xa hơn bất kỳ sự  thỏa mãn tình dục nào. Ta luôn luôn cảm thấy cực kỳ thỏa  mãn, cực kỳ hòa hợp. Chúng ta nhất thiết phải học cách  trải nghiệm hạnh phúc chân thật này.
 Ở phương Tây, nhiều người cho rằng quan hệ tình dục  có thỏa thuận giữa hai người trưởng thành bất kỳ là điều  chấp nhận được.
 Quan điểm này cách xa Dhamma (Giáo pháp) nhiều  lắm. Một người nào đó có liên hệ tình dục với một người,  rồi một người khác, và một người khác nữa thì sự thèm  muốn gia tăng gấp bội, và đồng thời làm tăng sự đau khổ.  Bạn nhất thiết chỉ nên kết hợp với một người thôi hoặc  sống không tình dục.
 Còn đối với sự dùng các loại thuốc để trải nghiệm một  vài loại cảm giác, hoặc những thực tại khác thì sao?
Có vài thiền sinh nói với tôi rằng khi dùng loại thuốc  tâm thần, họ đã có những kinh nghiệm tương tự như trong  khi hành thiền. Dù chuyện này có thật hay không, thì khi  phải dùng thuốc để có một kinh nghiệm là hình thức lệ  thuộc vào một yếu tố bên ngoài. Nhưng Dhamma dạy bạn làm chủ chính mình để có thể trải nghiệm thực tại theo  ý muốn vào bất cứ lúc nào. Còn một điều khác biệt quan  trọng nữa là việc dùng thuốc làm nhiều người mất quân  bình tâm trí và có hại cho chính họ, còn khi trải nghiệm sự  thật bằng cách thực hành Dhamma thì thiền sinh trở nên  quân bình hơn, không có hại cho mình hay người khác. 
Giới thứ năm là tránh chất gây say nghiện hay tránh  bị say nghiện? Nói cho cùng, nếu uống vừa phải, không  say, thì dường như không có hại gì. Hay chỉ cần uống một  ly ruợu là phạm giới?
 Dù chỉ uống một chút, nhưng về lâu về dài, bạn sẽ thèm  ruợu. Bạn không ý thức được, nhưng bạn đã bước một bước  đầu tiên vào con đường nghiện ngập, chắc chắn làm hại  bạn và hại người khác. Mỗi người nghiện đều khởi đầu  bằng chỉ một ly. Tại sao lại bước một bước vào con đường  đau khổ? Nếu bạn hành thiền nghiêm chỉnh và một ngày  nào đó bạn quên hay vì giao tế mà bạn phải uống một ly,  bạn sẽ thấy hôm đó bạn thiền kém hẳn đi. Dhamma không  thể đi chung với sự dùng chất gây say nghiện. Nếu bạn  thật sự muốn phát triển trong Dhamma, bạn phải tránh  hết mọi sự say nghiện. Đây là kinh nghiệm của hàng ngàn  người hành thiền. Những người phương Tây đặc biệt cần  phải hiểu hai giới liên quan đến việc tránh tà dâm và dùng  chất gây say nghiện.
 Nhưng ở đây người ta thường nói: “Nếu cảm thấy tốt  thì ắt phải đúng.”
 Đó là vì họ không nhìn thấy thực tại. Khi bạn hành  động vì chán ghét, tự nhiên bạn cảm thấy bất an. Và khi  bạn hành động vì thèm muốn, tuy bề ngoài bạn cảm thấy  thoải mái, nhưng trong thâm tâm bạn thấy dao động. Bạn  cảm thấy tốt đẹp vì vô minh. Khi bạn nhận ra rằng những  hành động như vậy đã gây hại cho bạn như thế nào thì tự  nhiên bạn sẽ dừng ngay những hành động đó.
 Ăn thịt có phải là phạm giới không?
 Không, trừ phi bạn giết con vật đó. Nếu thịt mang đến  cho bạn và bạn thấy thích như bạn ăn các món ăn khác  thì bạn không phạm giới nào cả. Tuy nhiên, ăn thịt là gián  tiếp khuyến khích người khác phạm giới sát sinh. Và ở một  mức độ tế nhị hơn, bạn ăn thịt là bạn tự hại mình. Từng  giây, từng phút con vật phát sinh thèm muốn, chán ghét,  nhưng nó không có khả năng quan sát chính nó, thanh lọc  tâm nó. Vì vậy mỗi thớ thịt của nó đều tẩm đầy thèm muốn  và chán ghét. Đó là những gì bạn tiếp nhận vào mỗi khi  bạn ăn thịt. Thiền giả muốn loại bỏ thèm muốn và chán  ghét vì vậy việc kiêng ăn thịt hẳn là rất hữu ích.
 Có phải vì vậy mà trong khóa thiền chỉ ăn chay?
 Phải, vì như vậy tốt cho thiền Vipassana.
 Thầy có khuyên nên ăn chay trong đời sống hằng ngày  không?
 Nếu ăn được cũng hữu ích.
 Đối với người hành thiền, kiếm tiền như thế nào thì có  thể chấp nhận được?
 Nếu bạn thực hành Dhamma, dù bạn không kiếm ra  tiền bạn vẫn hạnh phúc. Nhưng nếu bạn kiếm ra tiền và  không thực hành Dhamma thì bạn sẽ khổ. Dhama quan  trọng hơn. Sống ở đời, bạn phải tự nuôi sống bản thân. Bạn  phải làm việc vất vả và lương thiện để kiếm tiền, chẳng  có gì là sai quấy trong chuyện đó. Nhưng phải làm với  Dhamma.
 Nếu công việc mình làm có thể gây ra ảnh hưởng không  tốt, hay nếu những gì mình làm có thể bị dùng một cách  không tốt, thì có phải là nghề nghiệp sai trái không?
  Đó còn tùy thuộc vào ý định của bạn. Nếu bạn chỉ quan  tâm đến việc kiếm tiền cho thật nhiều, và nghĩ: “Mặc kệ  người khác bị hại, ta không cần, miễn ta có tiền là được  rồi”, thì đó là một sinh kế sai lầm. Nhưng nếu bạn có ý  định phục vụ nhưng dù vậy vẫn có người bị hại, đó không  phải trách nhiệm của bạn.
 Hãng tôi sản xuất một loại máy dùng để thu thập những  dữ kiện về sự nổ của nguyên tử. Tôi được chỉ định làm việc  với máy này, nhưng tôi cảm thấy có vẻ không đúng.
 Nếu là thứ chỉ được dùng để làm hại người khác, thì  chắc chắn là bạn không nên dính dấp vào. Nhưng nếu nó  có thể được dùng cho cả mục đích tốt lẫn xấu thì bạn không  có trách nhiệm gì đối với sự sử dụng của người khác. Bạn  làm với ý định người ta phải dùng cho mục đích tốt. Không  có gì sai quấy trong việc đó cả.
 Thiền sư nghĩ gì về chủ nghĩa hòa bình?
 Nếu bạn hiểu “chủ nghĩa hòa bình” có nghĩa là không  làm gì trước sự xâm lược thì tất nhiên là sai lầm. Dhamma  dạy bạn hành động một cách tích cực và phải thực tế.
 Còn về cách phản kháng bất bạo động của Mahatma  Ghandhi hay của Martin Luther King thì sao?
 Còn phải tùy thuộc vào tình huống. Nếu kẻ gây hấn  không hiểu ngôn ngữ nào ngoài võ lực, chúng ta phải dùng  sức mạnh thể lực, nhưng luôn giữ tâm quân bình. Nếu  không, ta nên cách phản kháng bất bạo động, nhưng không  phải vì sợ, mà là một hành động can đảm có đức hạnh. Đây  là đường lối của Dhamma, và đó là điều mà Thánh Gandhi  dạy người ta làm. Nó đòi hỏi sự can đảm dám tay không  đương đầu với những kẻ gây hấn có võ trang. Để làm như  vậy, ta phải sẵn sàng chấp nhận cái chết. Cái chết sẽ đến  không sớm thì muộn, người ta có thể chết trong sự sợ hãi hay trong can trường. Một cái chết đúng Pháp không thể là  trong sự sợ hãi. Thánh Gandhi thường nói với những người  theo ông khi họ đối diện với sự đối lập mãnh liệt: “Hãy để  bị thương ở trước ngực, chứ không phải ở sau lưng.” Ngài  đã thành công vì đã có Dhamma trong người.
 Chính Thiền sư nói rằng người ta có những sự trải  nghiệm tuyệt vời về thiền mà không cần giữ giới. Như vậy,  quá nhấn mạnh về giới hạnh có phải là quá giáo điều và  thiếu linh hoạt không?
 Tôi đã thấy trường hợp một số thiền sinh không cho  việc giữ giới là quan trọng, nên đã không thể tiến bộ được  trên con đường. Trong nhiều năm, những người đó có thể  đến dự những khóa thiền, và có được những kinh nghiệm  tốt đẹp về thiền, nhưng trong đời sống hằng ngày họ đã  không có gì thay đổi. Họ vẫn bị dao động và khổ sở vì họ chỉ  chơi đùa với Vipassana, như họ đã từng đùa với nhiều trò  chơi khác. Những người đó là những kẻ thua cuộc. Người  nào thực sự muốn dùng Dhamma để thay đổi đời họ cho tốt  đẹp hơn thì phải giữ sila càng cẩn thận càng tốt.


  TOA THUỐC CỦA BÁC SĨ

 Một người bị bệnh và đi khám bác sĩ. Bác sĩ khám xong  và ghi cho ông một toa thuốc. Người này rất tin tưởng vào  vị bác sĩ. Ông về nhà, vào phòng dùng để cầu nguyện và  bày bức hình rất đẹp của bác sĩ lên. Đoạn ông ngồi xuống  và kính lạy bức hình. Ông vái ba vái và dâng hương hoa.  Sau đó ông lấy đơn thuốc ra và cung kính tụng: “Hai viên  buổi sáng, hai viên buổi trưa, hai viên buổi tối!” Suốt ngày,  suốt cuộc đời ông liên tiếp tụng toa thuốc này vì ông tin  tưởng mãnh liệt nơi vị bác sĩ, nhưng toa thuốc đã không  giúp gì được cho ông.
 Rồi muốn hiểu rõ hơn về toa thuốc, ông đến gặp bác sĩ  và hỏi: “Tại sao bác sĩ kê thuốc này cho tôi? Nó sẽ giúp tôi  như thế nào?” Là người thông minh vị bác sĩ giảng: “Trông  đây, ông bị bệnh này, đây là nguyên nhân sâu xa của bệnh;  nếu ông dùng thuốc mà tôi kê toa thì căn nguyên của bệnh  sẽ hết. Khi nguyên nhân bị diệt trừ thì tự nhiên khỏi bệnh.”  Người này nghĩ: “A, thật là kỳ diệu! Bác sĩ của tôi thật tài  giỏi! Đơn thuốc của ông thật hữu ích.” Ông về nhà và bắt  đầu tranh cãi với hàng xóm, quyến thuộc: “Bác sĩ của tôi  là vị bác sĩ giỏi nhất! Các bác sĩ khác đều vô dụng.” Nhưng  ông đã được gì trong sự tranh cãi ấy? Có thể ông còn tiếp  tục tranh cãi suốt đời, nhưng sự kiện này chả giúp gì cho  ông. Chỉ khi nào ông uống thuốc thì ông mới hết bệnh và  hết đau khổ. Chỉ lúc đó thuốc mới giúp ích cho ông.
 Mỗi một bậc giác ngộ đều giống như vị bác sĩ. Vì lòng  trắc ẩn, ngài đưa ra “toa thuốc” chỉ bày cho mọi người  phương cách để thoát khỏi đau khổ. Nếu người ta phát  triển lòng tin mù quáng vào bậc giác ngộ đó, họ sẽ biến toa  thuốc thành “kinh điển” và bắt đầu tranh cãi với các giáo  phái khác, cho rằng chỉ có giáo lý mà vị giáo chủ của mình  giảng dạy mới cao cả hơn hết. Nhưng chẳng ai quan tâm  đến thực hành giáo huấn, uống thuốc để chữa bệnh.
 Lòng tin vào bác sĩ chỉ hữu ích khi nó khuyến khích  bệnh nhân làm theo lời khuyên của bác sĩ. Việc hiểu được  tác dụng của thuốc cũng chỉ có ích khi nó khuyến khích  bệnh nhân dùng thuốc. Nhưng nếu không thực sự uống  thuốc thì không thể chữa khỏi bệnh được. Bạn phải tự  mình uống thuốc.